Văn hóa, nghệ thuật Lưu Tống

Dù cho (và có lẽ ở một mức độ nào đó là do) những cuộc tắm máu này, nhưng trong thời nhà Lưu Tống người ta đã sáng tạo ra nhiều tác phẩm thơ ca (thi 詩) lớn và các thể loại thơ ca khác, đáng chú ý là phú (賦). Hoàng tộc đã hỗ trợ cho nhiều tác phẩm văn thơ, và chính họ cũng viết rất nhiều. Thời gian trị vì của Văn Đế là đặc biệt tích cực cho các hoạt động văn chương, với việc họ Lưu hỗ trợ cho việc sưu tập và biên soạn một tập hợp lớn các giai thoại văn xuôi ngắn.

Ba người khổng lồ của thời Nguyên Gia là Bão Chiếu (鮑照; ? - 466), Tạ Linh Vận (謝霊運; 385-422) và Nhan Diên Chi (顏延之; 384-456) là những nhà thơ nổi tiếng nhất của thời Lưu Tống, mỗi người trong số họ đã được cho là những ông tổ của ba xu hướng chính trong văn học sau này.

Tạ Linh Vận (385 - 433) - cháu nội Khang Lạc công Tạ Huyền, cũng là một nhân vật tài hoa của gia tộc họ Tạ. Do từ nhỏ được gia đình gửi nuôi ở ngoài nên ông còn có tên là Khách Nhi, thường gọi là Tạ Khách. Ông đọc khắp các sách, văn chương trác việt, sánh ngang với Nhan Diên Chi nhưng thực tế còn hơn cả họ Nhan. Ông được tập phong tước Khang Lạc Công, nên người đời thường gọi là Tạ Khang Lạc. Từ nhỏ Tạ Linh Vận đã được sống trong xa hoa, sung sướng, lấy yến ẩm, du ngoạn làm vui. Khi nhậm chức Thái thú Vĩnh Gia, Tạ Linh Vận thường chỉ thích ngao du sơn thủy, không màng danh lợi, rồi cố xin từ quan, dời đến Cối Kê (nay là Thiệu Hưng - Chiết Giang), dựng nhà giữa chốn kề sông tựa núi, phong cảnh tuyệt trần. Ông là nhà thơ nổi tiếng thời Tấn, Tống, thơ ông phần lớn là thơ sơn thủy, trong đó có nhiều câu thơ nổi tiếng được lưu truyền rộng rãi như: "Trì đường sinh xuân thảo, Viên liễu biến minh cầm, (Bờ ao cỏ xuân mượt, Liễu vườn hóa chim kêu)”… Thơ ông cứ vừa viết xong thì khắp Kinh thành đã tranh nhau truyền chép. Ông còn nổi tiếng về thư pháp. Thơ và chữ của ông được Tống Văn Đế coi là "nhị bảo", và cho vời ông về làm quan ở Kinh sư, ngày đêm hầu cận, đàm đạo. Khoảng niên hiệu Nghĩa Hi nhà Đông Tấn, Tạ Linh Vận cùng với Tạ Hồn và các con cháu Tạ gia là Tạ Chiêm, Tạ Hối, Tạ Diệu, Tạ Hoằng Vi lập thành một nhóm thơ văn, thường cùng nhau tụ tập yến ẩm ngâm vịnh, sử sách gọi là "Ô Y chi du" trở thành văn chương thưởng hội nổi tiếng nhất của con cháu họ Tạ.

Thơ văn họ Tạ còn có Tạ Diểu (464 - 499), tự Huyền Huy, thường được người đời gọi là Tiểu Tạ (so với Tạ Linh Vận). Ông từng nhậm chức Thái thú Tuyên Thành nhà Tề (Nam triều) nên còn được gọi là Tạ Tuyên Thành. Từ niên thiếu, ông đã có tài hoa xuất chúng, từng làm các chức văn học, công tào ở phủ Cánh Lăng Vương, là một trong "Cánh Lăng bát hữu", văn chương rất được hâm mộ. Ông và Thẩm Ước sáng lập ra thể thơ Vĩnh Minh, đánh dấu một giai đoạn quan trọng trên con đường phát triển thơ ca Trung Quốc từ "cổ thể" tự do đến "cận thể" có cách luật nghiêm chỉnh, trong đó các sáng tác của ông là nhiều nhất, hiện còn hơn hai trăm bài, đến đời Minh được người sau tập hợp lại thành Tạ Tuyên Thành tập. Ông có rất nhiều câu thơ hay được truyền tụng rộng rãi như: "Dư hà thành tán ỷ, Trừng giang tĩnh như luyện (Những đám ráng chiều sót lại thành những tấm là tản mát,Dòng sông trong vắt phẳng lặng như một dải lụa trắng) và "Thiên tế thức quy chu, Vân trung biện giang thụ" (Bên trời biết con thuyền đã trở về; Trong mây nhận rõ được những cái cây bên sông). Thơ của ông chính là mở đầu cho thơ ngũ ngôn, thất ngôn luật thi đời Đường sau này. Đến thời Đường, Lý Bạch, Đỗ Phủ đều có thơ ca ngợi Tạ Diểu, đánh giá cao thơ ca của ông.

Cháu nội Tạ Linh Vận là Tạ Siêu Tông cũng nổi tiếng có văn tài, được vua rất ưa chuộng và từng ca ngợi: "Tạ Siêu Tông sừng lân lông phượng, đúng là Tạ Linh Vận tái thế". Tạ Siêu Tông không những giỏi thơ văn mà còn tiếp nối truyền thống uống rượu của họ Tạ. Ông từng giữ chức Hoàng môn lang thời Tề Cao Đế, nhưng do ông thường uống rượu ngay cả khi làm việc ở công đường nên bị điều đi làm chức Trung quân Tư mã cho Nam Quận vương.

Các nhà khoa học và thiên văn học cũng tích cực hoạt động trong thời kỳ tương đối yên bình. Đạo Phật bắt đầu được hiểu rõ hơn và được tu luyện rộng rãi hơn trong thời kỳ này, và một số quan lại, chẳng hạn như Tạ Linh Vận, là các Phật tử.